i ngất xỉu. Ông Toản định thần một hồi mới thắp đèn soi rõ mặt cái thằng bạo gan kia là ai, té ra là lão Trì.
Lão Trì xỉu một chặp thì tỉnh dậy, cũng may ông Toản tuổi cao thành thử sức đánh không mạnh lắm, nhưng cũng kịp để nguyên một quả cam lên đầu lão Trì. Nghe lão Trì kể hết chuyện, cả hai cùng thằng con trai lớn ông Toản đốt đèn ra cái dốc Miếu. Lão Trì vừa đi vừa run, tay bám chặt ông Trọng, trong đầu còn nhớ đến hai cái gương mặt hãi hùng kia.
Trong miếu vắng tanh, chỗ gốc mít chỉ còn một ít tiền vàng mã và áo binh đã nhàu nát, chẳng thấy mẹ con kia đâu cả. Nhưng như thế cũng đủ khiến cả ba chợn người.
Chờ một hồi không thấy động tĩnh gì, ai về nhà nấy. Lão Trì chèo mạnh chiếc ghe ra phía chòi, cố tránh càng xa cái miếu càng tốt. Nhấc thử cái vó, lão thấy nằng nặng. Cái sợ hãi nó biến đâu mất, lão chắc mẩm phen này trúng đậm mẻ cá lớn. Hì hục một hồi lão cũng cất cái rớ lên được, rọi đèn vào giữa lưới, một lần nữa da mặt lão y hệt như lúc hồi nãy gặp hai mẹ con ở dốc Miếu đôi. Trong lưới có người, mùi hôi thối bốc ra khiến lão Trì ói ngay tại chỗ.
3. Bắt ma
Cái tin lão Trì ngay một đêm vừa gặp ma, vừa rớ được người khiến cái làng Bích vốn yên bình nay nháo nhào lên hết cả, không ồn ào sao được khi nhiều chuyện lớn như vậy xảy ra. Công an đến khám nghiệm bảo cha Thắng trưởng thôn nhậu say về rồi té ngã chết đuối dưới sông, tất cả đơn thuần chỉ là một tai nạn. Nhưng dân làng Bích ai mà tin, mười người hết mười một người cho rằng cha Thắng chết cho ma dìm, nói như vậy để thấy cái nỗi sợ hãi đã bao trùm lên cả làng. Cha Thắng trưởng thôn chết đồng nghĩa với việc xuất hiện cái xác thứ năm trong vòng bốn tháng. Khúc sông đó đã vắng vẻ nay chả thấy một bóng người, cái đèn neon trong cái chòi của lão Trì cũng tắt ngúm, nghe đâu lão bỏ qua làng khác rồi.
Tụi con nít trong xóm được thể tối ngày hát mấy bài vè, vừa hát mắt vừa lấm lét: Nghe vẻ nghe ve, nghe vè ma nước, một ông chết trước, kéo cả mấy ông, người thì tăng xông, kẻ thì ăn nhậu, mặt ai cũng xấu, dúm dó nhăn nheo, chắc hẳn ma theo, mẹ con xin áo.... .
Quán nước bà Bổi mấy ngày này khách đến nhộn nhịp cả lên, ai cũng đến ngóng xem câu chuyện thực hư thế nào. Bà Bổi tay rót nước miệng cứ đon đả, ra điều bí hiểm:
- Ghê lắm các bác ạ, nó kéo năm mạng rồi, có lão cất vó làng em còn bị nó dọa cho nát vía, bỏ làng đi mất đấy.
Đám đông càng nghe càng xôn xao, thần sắc ai cũng toát lên vẻ sợ hãi. Trong đám người ngồi uống nước bất chợt có tiếng the thé vang lên:
- Hai vong này cũng dễ bắt.
Mọi ánh mắt đổ dồn về phía người vừa nói, là lão Ánh thầy cúng. Bà Bổi nhanh nhảu:
- Này, đừng có khoác, có giỏi ông đi bắt hai cái vong ấy về đây, cả làng này góp tiền thưởng ông.
Vuốt chỏm râu không lấy gì làm đẹp của mình, lão Ánh cười gằng:
- Cả làng cứ chung tiền để đó, tối nay ra dốc Miếu coi tôi bắt hai cái vong đó chơi. Nói đọan, lão đứng dậy bỏ đi thẳng.
Cả đám đông lại xì xào thêm, ai cũng bán tín bán nghi. Chỉ có một người tách khỏi đám đông lầm lũi tiến ra chiếc ghe, khua mái chèo về phiá khúc sông làng Bích, là cụ Bảy. Từ giữa sông từng câu hát cụ xa dần nghe ai oán, não nề:
Kìa mây đi mất, chim về núi sầu, thuyền đưa đủng đỉnh, chàng đâu chàng đâu.... .
Vừa chập tối nhà ai cũng đóng cửa, tiếng là đóng cửa nhưng ai cũng ngóng về phía dốc miếu Đôi coi lão Ánh bắt ma ra làm sao. Mấy đứa con nít bạo gan hơn, vừa chạy theo lão Ánh vừa hát vè. Lão Ánh tối nay mặc một đồ vàng chóe hệt như Lâm Chánh Anh trong phim cương thi, chỉ khác là một bên phim ảnh, một bên đi bắt ma thật.
Lão Ánh bắt đầu bày đồ lễ ra giữa miếu, mấy ngọn nến vàng uột thắp sáng trưng cả miếu hòa lẫn cái màu đỏ ối của đèn khiến không gian thêm kì bí. Lão đặt giữa bàn một cái thau có thứ nước sền sệt, bốc lên một mùi tanh lợm họng, chắc có lẽ là máu chó mực.
Viết vẽ máy hình rồng rắn lên mấy tấm bùa, lão bắt đầu làm phép. Một tay khua chuông, một tay cầm kiếm gỗ, lão hú hét những thứ tiếng gì chẳng rõ, chốc chốc lại vơ một nắm gạo ném về phiá gốc mít, la lớn:
Ma, cút đi khỏi cây
Xuất vong khỏi đây
Trông dáng điệu của lão Ánh, mấy đứa con nít bụm miệng cười khúc khích chứ không dám cười lớn. Dân làng thì ai nấy dỏng tai lên nghe, cố căng mắt nhòm về phía dốc Miếu dẫu chỉ thấy màn đêm đen đặc và thứ ánh sáng yếu ớt từ ngọn nến và chiếc đèn hột lựu.
Cả thau máu chó bị lão Ánh hắt mạnh về phía gốc mít. Đột nhiên, từ gốc mít khói bốc lên mù mịt, có tiếng gầm rú thật kinh hoàng, ai nghe cũng phải bịt tai. Một cái bóng trắng nhờ ở giữa thân cây, quắc đôi mắt đỏ ngầu về phía lão Ánh, một cái nhìn quằn quại, đầy sự hận thù.
Lão Ánh đớ người, vừa ném gạo vừa la hét mấy thứ tiếng cổ nhưng có vẻ không ăn thua. Con ma vẫn ở đó, rũ rượi, thè chiếc lưỡi dính đầy máu chó mực quét xuống tận đất.
Can dầu lão Ánh dung để phun lửa bất ngờ hắt thẳng vào người lão, một tiếng Ùm vang lên. Người ta nghe tiếng lão Ánh quằn quại, giãy giụa. Lão bây giờ như một bó đuốc sống, chạy mấy bước rồi ngã quỵ, mấy đứa con nít thất sắc, la lớn bỏ chạy khiến người dân túa ra đông vỡ chợ.
Khi chạy đến nơi, lão Ánh chỉ còn một giúm, đen sì, bốc khói. Trên cây mít cũng chẳng còn ai.
Ở bến đò, cụ Bảy ngồi thẫn thờ nhìn đám đông túa ra dốc Miếu đôi. Cụ biết chuyện này thế nào cũng xảy ra. Vuốt cây đàn nhị, lão lại ngồi hát, những câu hát về phận người đầy bi ai.
***
4. Chìa khóa
Sư Thiện Pháp vừa ngồi uống nước chè, vừa ngẫm lại mọi sự đang diễn ra ở trong làng. Bây giờ tối đến chẳng ai dám ra đường, con nít bị bắt ở yên trong nhà, khúc sông làng Bích giờ như vô chủ, hoang tàn , lạnh lẽo. Có vẻ chỉ còn cửa chùa là nơi khiến người ta cảm thấy an tâm nhất.
Chú tiều lẽo đẽo chạy vào rót thêm nước sôi vào ấm, cắt ngang dòng suy nghĩ của sư.
- Con cứ để đó cho thầy.
- Bẩm thầy, nãy giờ có cụ Bảy ngồi chờ xin gặp thầy trước cửa chùa, con tính báo nhưng thấy thầy đang ngồi ngẫm nên.... .
- Sao không nói sớm, con ra mời cụ vào ngay cho thầy - sư Thiện Pháp vội vã.
Cụ Bảy ôm cây đàn chậm rãi tiến vào góc sân vườn chùa. Rót chén nước chè mời cụ Bảy, sư vẫn không giấu nổi vẻ hoài nghi. Cụ Bảy không nói gì uống cạn chén nước, sư Thiện Pháp lại rót đầy cho cụ, cụ lại bưng lên uống khảng khái. Đặt chén nước chè còn đọng ấm hơi xuống, cụ Bảy ôn tồn:
- Chắc sư thầy có nghe chuyện ma quỷ của làng ta.
- Bẩm cụ, tôi có. Thú thật, tôi cũng đang phiền vì chuyện ấy đây, cụ biết cửa chùa thanh tịnh một lòng mở của từ bi xóa bỏ lỗi lầm. Phàm có chuyện gì cũng đều bác ái bỏ qua, oan hồn thực chất mà nói cũng chỉ là do oán khí tích tụ mà nên. Tôi thiết nghĩ vong linh này chắc chắn có chuyện oan trái, ngặt một nỗi nhà chùa chưa thể hóa duyên giải ngộ cho nó được.
- Sư thầy cũng tin có ma quỷ? - cụ Bảy hỏi giọng chắc nịch.
- Có chứ, hề là người đều có phần hồn phần xác, khi chết đi chỉ còn phần hồn. Thường thì hồn sẽ sang đầu thai làm kiếp khác, nếu không thì có chuyện gì khúc mắc phần hồn mới luẩn quẩn như vậy.
Nén tiếng thở dài, cụ Bảy vừa nhìn xa vừa nói:
- Chuyện cũng là do tôi. Cách đây bốn tháng, vào chiều mùng một Tết khi đó tôi đang câu cá ở mé sông thì thấy đằng xa có một cô gái đi thẳng đến chỗ tôi, nhờ tôi chở sang sông. Lúc đó đã chiều, trời đã gần tối, lại thấy sắc mặt cô gái có vẻ không tốt nên tôi sinh nghi, chưa ra đò vội. Gặng hỏ